Đăng Nhập
Những điều cơ bản của nho giáo
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Những điều cơ bản của nho giáo
Để trở thành người quân tử , con người ta trước hết phải " tự đào tạo " , phải " tu thân " . Sau khi tu thân xong , người quân tử phải có bổn phận phải | " hành đạo " ( Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí . Nho gia đình dùng cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức , và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ , vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng ( hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra ) và cần phải tuân theo . Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo , tức là nắm được đạo trời , biết sợ mệnh trời . Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh ) Cần phải hiểu cơ sở triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó .
Tu thân Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương , ngũ thường , tam tòng , tứ đức . . . để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội .
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo . Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức nữ giới phải theo . Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Tam cương Tam là ba , cương là giềng mối . Tam cương là ba mối quan hệ : quân thần ( vua tôi ) , phụ tử ( cha con ) , phu phụ ( vợ chồng ).
Trong xã hội phong kiến , những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc " chết người.
Quân thần : ( " Quân xử thần tử , thần bất tử bất trung " nghĩa là : dù vua có bảo bề tôi chết đi nữa thì | bề tôi cũng phải tuân lệnh , nếu bề tôi không tuân lệnh thì bề tôi không trung với vua ) Trong quan hệ vua tôi , vua thưởng phạt luôn luôn công minh , tôi trung thành một dạ .
Phụ tử : ("phụ xử tử vong , tử bất vong bất hiếu nghĩa là : cha khiến con chết , con không chết thì con không có hiếu")
Phu phụ : ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là : chồng nói ra , vợ phải theo)
Ngũ thường Ngũ là năm , thường là hằng có . Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời , gồm : nhân , nghĩa , lễ , trí , tín .
Nhân : Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật .
Nghĩa : Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải .
Lễ : Sự tôn trọng , hòa nhã trong khi cư xử với mọi người .
Trí : Sự thông biết lý lẽ , phân biệt thiện ác , đúng sai .
Tín : Giữ đúng lời , đáng tin cậy .
Tam tòng Tam là bay tòng là theo . Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo , gồm : tại gia tòng phụ , xuất giá tòng phu , phu tử tòng tử "
Tại gia tòng phục người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
Xuất giá tòng phu : lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử : nếu chồng qua đời phải theo con "
Tứ đức Tứ là bốn ; đức là tính tốt . Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có là : công - dung - ngôn - hạnh .
Công (Thủ Công) : khéo léo trong việc làm .
Dung (Dung Mạo) : hòa nhã trong sắc diện .
Ngôn (Lời Nói) : mềm mại trong lời nói .
Hạnh (Đức Hạnh) : nhu mì trong tính nết .
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
* Đạt đạo . Đạo có nghĩa là " con đường " , hay " phương cách " ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống . " Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều : đạo vua tôi , đạo cha con , đạo Vợ chồng , đạo anh em , đạo bạn bè " ( sách Trung Dung ) , tương đương với " quân thần , phụ tử , phu phụ , huynh đệ , bằng hữu " . Đó chính là Ngũ thường , hay Ngũ luân [ 1 ] . Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là *trung dung*. Tuy nhiên , đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng .
* Đạt đức . Quân tử phải đạt được ba đức : " nhân - trí - dũng " . Khổng Tử nói : " Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được . Người nhân không lo buồn , người trí không nghi ngại , người dũng không sợ hãi " ( sách Luận ngữ ) . Về sau , Mạnh Tử thay " dũng " bằng " lễ , nghĩa " nên ba đức trở thành bốn đức : " nhân , nghĩa , lễ , trí " . Hán nho thêm một đức là " tín " nên có tất cả năm đức là : " nhân , nghĩa , lễ , trí , tín " . Năm đức này còn gọi là ngũ thường .
* Biết thi , thư , lễ , nhạc . Ngoài các tiêu chuẩn về " đạo " và " đức " , người quân tử còn phải biết " thi , thư , lễ , nhạc " . Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Hành Đạo:
Sau khi tu thân , người quân tử phải hành đạo , tức là phải làm quan , làm chính trị . Nội dung của công việc này được công thức hóa thành " tề gia , trị quốc , bình thiên hạ " . Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình , cho đến lớn - trị quốc , và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ ( thống nhất thiên hạ ) . Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm :
* Nhân trị . Nhân là tình người , nhân trị là cai trị bằng tình người , là yêu người và coi người như bản thân mình . Khi Trọng Cung hỏi thể nào là nhân thì Khổng Tử nói : " Kỷ sở bất dục , vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác " ( sách Luận ngữ ) . Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý , đạo đức , Khổng Tử nói : " Người không có nhân thì lễ mà làm gì ? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì ? " ( sách Luận ngữ ) .
* Chính danh . Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó , mỗi người phải làm đúng chức phận của mình . " Danh không chính thì lời không thuận , lời không thuận tất việc không thành " ( sách Luận ngữ ) . Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công : " Quân quân , thần thần , phụ phụ , tử tử - Vua ra vua , tôi ra tôi , cha ra cha , con ra con " ( sách Luận ngữ ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo , chúng được tóm gọn lại trong chín chữ : tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên hạ . Và đến lượt mình , chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị , người có đạo đức và biết thi , thư , lễ , nhạc . Tuy nhiên , sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền . Ngược lại , những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Tu thân Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương , ngũ thường , tam tòng , tứ đức . . . để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội .
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo . Tam tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức nữ giới phải theo . Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Tam cương Tam là ba , cương là giềng mối . Tam cương là ba mối quan hệ : quân thần ( vua tôi ) , phụ tử ( cha con ) , phu phụ ( vợ chồng ).
Trong xã hội phong kiến , những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc " chết người.
Quân thần : ( " Quân xử thần tử , thần bất tử bất trung " nghĩa là : dù vua có bảo bề tôi chết đi nữa thì | bề tôi cũng phải tuân lệnh , nếu bề tôi không tuân lệnh thì bề tôi không trung với vua ) Trong quan hệ vua tôi , vua thưởng phạt luôn luôn công minh , tôi trung thành một dạ .
Phụ tử : ("phụ xử tử vong , tử bất vong bất hiếu nghĩa là : cha khiến con chết , con không chết thì con không có hiếu")
Phu phụ : ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là : chồng nói ra , vợ phải theo)
Ngũ thường Ngũ là năm , thường là hằng có . Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời , gồm : nhân , nghĩa , lễ , trí , tín .
Nhân : Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật .
Nghĩa : Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải .
Lễ : Sự tôn trọng , hòa nhã trong khi cư xử với mọi người .
Trí : Sự thông biết lý lẽ , phân biệt thiện ác , đúng sai .
Tín : Giữ đúng lời , đáng tin cậy .
Tam tòng Tam là bay tòng là theo . Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo , gồm : tại gia tòng phụ , xuất giá tòng phu , phu tử tòng tử "
Tại gia tòng phục người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
Xuất giá tòng phu : lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử : nếu chồng qua đời phải theo con "
Tứ đức Tứ là bốn ; đức là tính tốt . Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có là : công - dung - ngôn - hạnh .
Công (Thủ Công) : khéo léo trong việc làm .
Dung (Dung Mạo) : hòa nhã trong sắc diện .
Ngôn (Lời Nói) : mềm mại trong lời nói .
Hạnh (Đức Hạnh) : nhu mì trong tính nết .
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
* Đạt đạo . Đạo có nghĩa là " con đường " , hay " phương cách " ứng xử mà người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống . " Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều : đạo vua tôi , đạo cha con , đạo Vợ chồng , đạo anh em , đạo bạn bè " ( sách Trung Dung ) , tương đương với " quân thần , phụ tử , phu phụ , huynh đệ , bằng hữu " . Đó chính là Ngũ thường , hay Ngũ luân [ 1 ] . Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là *trung dung*. Tuy nhiên , đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam cương hay còn gọi là Tam tòng .
* Đạt đức . Quân tử phải đạt được ba đức : " nhân - trí - dũng " . Khổng Tử nói : " Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được . Người nhân không lo buồn , người trí không nghi ngại , người dũng không sợ hãi " ( sách Luận ngữ ) . Về sau , Mạnh Tử thay " dũng " bằng " lễ , nghĩa " nên ba đức trở thành bốn đức : " nhân , nghĩa , lễ , trí " . Hán nho thêm một đức là " tín " nên có tất cả năm đức là : " nhân , nghĩa , lễ , trí , tín " . Năm đức này còn gọi là ngũ thường .
* Biết thi , thư , lễ , nhạc . Ngoài các tiêu chuẩn về " đạo " và " đức " , người quân tử còn phải biết " thi , thư , lễ , nhạc " . Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Hành Đạo:
Sau khi tu thân , người quân tử phải hành đạo , tức là phải làm quan , làm chính trị . Nội dung của công việc này được công thức hóa thành " tề gia , trị quốc , bình thiên hạ " . Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình , cho đến lớn - trị quốc , và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ ( thống nhất thiên hạ ) . Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm :
* Nhân trị . Nhân là tình người , nhân trị là cai trị bằng tình người , là yêu người và coi người như bản thân mình . Khi Trọng Cung hỏi thể nào là nhân thì Khổng Tử nói : " Kỷ sở bất dục , vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác " ( sách Luận ngữ ) . Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý , đạo đức , Khổng Tử nói : " Người không có nhân thì lễ mà làm gì ? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì ? " ( sách Luận ngữ ) .
* Chính danh . Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó , mỗi người phải làm đúng chức phận của mình . " Danh không chính thì lời không thuận , lời không thuận tất việc không thành " ( sách Luận ngữ ) . Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công : " Quân quân , thần thần , phụ phụ , tử tử - Vua ra vua , tôi ra tôi , cha ra cha , con ra con " ( sách Luận ngữ ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo , chúng được tóm gọn lại trong chín chữ : tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên hạ . Và đến lượt mình , chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị , người có đạo đức và biết thi , thư , lễ , nhạc . Tuy nhiên , sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải có quyền . Ngược lại , những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|